Không chỉ tái hiện một đế chế hùng mạnh, một nền văn minh vĩ đại, “Sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã” còn nêu nguyên nhân, các sự kiện và lý giải sự sụp đổ của đế chế này.

Bạn đang xem: Đế chế la mã cổ đại


*

Được mệnh danh là “Đế chế không có điểm kết thúc”, Đế chế La Mã sở hữu quy mô lên đến hàng vạn dặm trải dài từ Á sang Âu, với vô số thành tựu ưu việt về cả văn hóa, công nghệ hay quân sự đương thời. Nhưng đế chế này đã đi tới kết cục không thể tránh khỏi mặc cho những gì đã đạt được.

Một giai đoạn trải dài 13 thế kỷ

Trong tác phẩm đồ sộ Sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã (gồm 6 tập, được xuất bản trong khoảng thời gian 12 năm từ 1776 đến 1788), sử gia người Anh Edward Gibbon (1737-1794) không chỉ tái hiện lại một đế chế hùng mạnh, một nền văn minh vĩ đại, mà còn chỉ ra nguyên nhân, trong đó có các sự kiện và những câu chuyện dẫn đến sự sụp đổ tàn khốc của đế chế này.

Bộ sách bao quát một giai đoạn trải dài 13 thế kỷ, bắt đầu từ thời đại của Trajan và vương triều Antonine (năm 98-198) cho tới sự sụp đổ sau cùng của Constantinopolis (Istanbul ngày nay) vào năm 1453, với một phạm vi rộng khắp từ Địa Trung Hải qua Bắc Phi và Tây Á. Trong giai đoạn này có rất nhiều sự kiện lịch sử mang tính bước ngoặt phản ánh thời kỳ ổn định và thịnh vượng chưa từng thấy, cho đến những bất ổn và suy tàn ngày càng tăng, dẫn đến sụp đổ hoàn toàn của đế chế này.

Trong thời đại của Trajan và vương triều Antonine (năm 98-198), nền quân chủ La Mã đã đạt tới mức hoàn bị, nhưng cũng bắt đầu mon men đến buổi suy tàn. Từ năm 284 đến 324, Đế chế La Mã chia thành Đông La Mã và Tây La Mã. Sau thời kỳ thống nhất (324-364), La Mã tiếp tục chia thành hai phần Đông và Tây (364-476).

Năm 476, Tây La Mã đã sụp đổ và nó đã bị hoàng đế Zeno bãi bỏ chính thức vào năm 480. Sau khi Tây La Mã sụp đổ thì Đông La Mã đóng vai trò như là một cường quốc bậc nhất ở Trung Đông và châu Âu. Constantinopolis trở thành thủ phủ của đế chế này.

Năm 1204, cuộc Thập tự chinh thứ tư diễn ra và Đế quốc Latin được thành lập bởi các nhà lãnh đạo của cuộc thập chinh này trên lãnh thổ giành được từ Đông La Mã.

Năm 1261, Đông La Mã được phục hồi sau cuộc tái chiếm Constantinopolis được quân lính của Đế quốc Nicaea, nhà nước kế thừa mạnh mẽ nhất của Đông La Mã thực hiện. Tuy nhiên, hậu quả nó để lại là sự trì trệ khiến quốc gia lâm vào thế bị động và yếu thế hơn so với các cường quốc mới nổi trong khu vực. Năm 1453, Đông La Mã đã sụp đổ hoàn toàn sau khi Constantinopolis thất thủ bởi đế quốc Ottoman dưới triều đại của Mehmed II.

*

Tác phẩm Sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã. Ảnh: O.P.

Viễn cảnh hoang tàn và sự sụp đổ của La Mã

Trong tác phẩm, Gibbon đã trình bày lịch sử tôn giáo gắn liền với sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã. Nhưng tôn giáo không phải là chủ đề duy nhất của ông.

Chúng ta bắt gặp những từ “dân rợ” (một thuật ngữ đại khái áp dụng cho những người ngoài đế chế, thường thèm muốn sự giàu có mà họ nhìn thấy), chủ nghĩa quân phiệt hám lợi (vô năng, thiếu dũng khí, không có lòng ái quốc), thuế khóa áp bức (đánh thuế một cách bất công và ép nộp một cách nhẫn tâm nhất đối với những người ít có khả năng chi trả nhất, các chính trị gia đồi bại, chính phủ chuyên chế và chiến sự liên miên chống lại kẻ thù của trật tự La Mã, trong và ngoài đế chế.

Bắt đầu tại thời điểm kết thúc của chính quyền Cộng hòa (vào năm 31 TCN, nền Cộng hòa La Mã đầu hàng vô điều kiện trước nhà độc tài quân sự Caesar Augustus), Gibbon đã lần theo những thăng trầm của đế chế La Mã.

Ông cho rằng chính nền chuyên chế quân sự và tình trạng vô chính phủ đã phá tan nhà nước không chỉ một lần. Máu đã đổ xuống và các nền kinh tế đã tiêu tan vì nội chiến được đỡ gượng dậy hết lần này đến lần khác trên một cái nền móng thậm chí còn bị áp bức hơn bao giờ hết. Những xung đột nội bộ gia tăng cùng sự gia tăng của quá trình Kitô hóa.

Trong suốt giai đoạn đó, những kẻ xâm lấn liên tiếp xuất hiện và giáng những đòn vũ lực vào thành lũy phòng vệ được dựng lên bởi một quân đội hống hách, suy đồi và vô kỷ luật.

Tiếp đó, chúng ta chứng kiến sự phân chia của phương Đông và phương Tây, ban đầu là quân sự, rồi đến chính trị và cuối cùng là tôn giáo.

La Mã sụp đổ, nhưng có La Mã mới của hoàng đế Constantine, một La Mã Kitô giáo, tức thành Constantinopolis vẫn tồn tại 1.000 năm nữa, thiên niên kỷ chứng kiến sự trỗi dậy của một giáo thuyết độc thần khác là Islam, cũng như của các đế chế người Ả rập, nhiều tộc du mục (trong đó có Zingis, hay Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn) và dân Thổ thuộc đế chế Ottoman. Châu Âu phong kiến đòi lại những lãnh thổ đã mất vào tay người Islam trong một loạt cuộc thập chinh tôn giáo... Tất cả những điều này đã dẫn đến viễn cảnh hoang tàn của La Mã vào thế kỷ 15 và sự sụp đổ của đế chế này là một điều tất yếu.

Bên cạnh việc chỉ nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ tàn khốc của một đế chế hùng mạnh kéo dài 13 thế kỷ, Sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã còn đề cập đến cả lối sống của một nền văn minh.

Trên một số bình diện tác phẩm còn được coi là câu chuyện về đêm tối bạo quyền (bắt từ năm 31 TCN, thời điểm kết thúc của chính quyền Cộng hòa La Mã). Mãi đến năm 1776 (thời điểm bộ sách ra mắt lần đầu), một cuộc thử nghiệm về chính quyền cộng hòa mới được hồi sinh trên quy mô lớn, và con đường này đã được khai mở bởi Phong trào Phục Hưng, Cải Cách và Khai minh.

Đế chế La Mã đã tham gia tạo dựng nên một nền văn minh tiến bộ bằng sự hiểu biết, ham học hỏi mà thế giới hiện đại đang kế thừa và phát triển.


*

*

*

*

Từ 1.500 năm trước công nguyên, một cộng đồng người di cư đã vượt dãy Alps và biển Adriatic tới phía Đông của bán đảo Italia khai hoang. Họ sinh sống, trồng trọt trong một thị trấn nhỏ có tên là thành Roma. Và cũng chính những người nông dân di cư này, bằng nỗ lực phi thường đã xây dựng nên đế chế La Mã, một đế chế được mệnh danh là "Imperium sine fine" - Đế chế không có điểm kết thúc, không bị giới hạn về cả thời gian hay không gian. Đồng thời là đế chế hình mẫu cho sự ưu việt về văn hóa, công nghệ, quân sự và xã hội đương thời.
*

Tôn sùng kỷ luật tuyệt đối nên người La Mã có những nhà lãnh đạo cứng rắn, luôn kiên quyết thực thi mục tiêu. Quân đội Roma cũng thể hiện những tiêu chuẩn của xã hội nghiêm khắc này. Khi xung trận, một đội quân có tính kỷ luật cao được dẫn dắt bởi một người chỉ huy quyết đoán sẽ cùng nhau chiến đấu và kiên trì cho đến khi chiến thắng đối thủ. Người La Mã đã sử dụng quân đội của mình để thống trị cư dân chung quanh. Đến thế kỷ 7 và 6 TCN, người La Mã chinh phục rất nhiều nơi thuộc Italy và các vùng đất ngoài Italy. Họ bắt đầu lớn mạnh nhanh chóng và thành lập nên Vương quốc La Mã.
Trong thời kì cổ đại, giáo dục La Mã tuy còn sơ khai nhưng được xem là cực kì tiến bộ. Họ đào tạo ra những con người cho đất nước theo những phương pháp chủ động, tích cực. Những môn học được giảng dạy ở thời kì này bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, quân sự, văn hóa, lịch sử, xã hội, ngữ pháp, hùng biện, logic… với phương pháp học đòi hỏi sự tư duy và lý luận sâu sắc, chính là nền tảng quan trọng cho một nền giáo dục Tây Âu đương đại.
Người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn gốc từ văn tự Hy Lạp, họ đã bổ sung và hoàn thiện, đặt ra một loại chữ viết riêng của mình - chữ Latinh trở nên phổ biến và chính là nguồn gốc của các ngôn ngữ ở châu Âu. Nhờ có chữ Latinh mà chúng ta phát triển được ra ngôn ngữ chung cho cả thế giới, thúc đẩy nhiều lĩnh vực phát triển như chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học, nghệ thuật… mang mọi nền văn hóa của các quốc gia dần xích lại gần nhau hơn.
Văn học La Mã chủ yếu tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hy Lạp gồm nhiều thể loại như sử thi, thơ trữ tình, thơ trào phúng, văn xuôi, kịch… Người La Mã tiếp thu và cải biên đi thành những vị thần của mình như: Thần Zeus - thần Jupiter, Thần Hera, Poseidon, Demeter, Athena… và các vị thần chính là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch. Trong đó, thần thoại của La Mã luôn gắn liền với những câu chuyện từ các vị thần cùng những khát vọng gần gũi với con người hơn.
Titus Livius (59 TCN - 17 SCN) nhà sử học xuất sắc của La Mã trong thời kì trị vì của Augustus đã viết Lịch Sử La Mã dài 142 chương, nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước qua lịch sử hào hùng của dân tộc... Những thành tựu này, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền sử học thế giới.
Đền Pantheon một trong những công trình kiến trúc vĩ đại của đế chế La Mã


Kiến trúc La Mã phát triển rực rỡ, đại diện tiêu biểu La Mã là Vitrius (86-26 TCN), ông đã dành cả cuộc đời để viết về các kỹ thuật kiến trúc xây dựng và đây cũng chính là bộ sách duy nhất thời cổ đại được bảo tồn nguyên vẹn đến ngày nay.
Trong đó, phải kể đến biểu tượng Colosseum đấu trường lớn nhất, vĩ đại nhất của đế chế La Mã được xây dựng năm 72 sau CN, hoàn thành sau 8 năm với chiều cao 8m, dài 189m, rộng 156m, diện tích dáy 24.000m², chu vi bên ngoài 545m và kích thước đấu trường trung tâm là 87m x 55m. Để xây dựng nên công trình này, người La Mã đã sử dụng 100.000 m3 đá, 300 tấn kẹp sắt để kết nối. Colosseum có sức chứa 50.000 - 80.000 khán giả. Đây nơi diễn ra những màn tử chiến vô cùng đẫm máu và tàn bạo giữa các tù binh giác đấu, các tù binh chiến tranh, nô lệ cùng những con quá thú nhằm mục đích mua vui cho vua chúa và người dân. Tiếp đến là trường đua Cirus Maximus có sức chứa 250.000 khán giả. Đấu trường này, đã mang lại cho các tay đua nguồn thu nhập khổng lồ so với những vận động viên thể thao đương đại.
Về lĩnh vực khoa học La Mã có sự tiến bộ vượt bậc, tiêu biểu như Heron (thế kỷ I) - một kỹ sư tài ba và là nhà toán học xuất sắc với các cách tính diện tích. Nhà toán học và thiên văn học Menelaus (thế kỷ II – III) đã chứng minh được tổng các góc trong một tam giác cầu lớn hơn 180 độ và cách tính dây cung mặt cầu.
Nhà toán học Claudius Ptolemy (khoảng thế kỷ thứ II) - người đầu tiên vẽ bản đồ trái đất, lấy Địa Trung Hải làm trung tâm với tác phẩm "Hệ thống vũ trụ", ông cho rằng trái đất là hình tròn đã giúp các nhà địa lý tìm ra những miền đất mới.
Nhà triết học, thầy thuốc Claudius Galen (131- đầu thế kỉ III) đại diện xuất sắc cho nền y học tiến bộ của La Mã với tác phẩm "Phương pháp chữa bệnh" chứng minh được rằng các mạch vận chuyển máu, nếu như cắt đứt dù chỉ là một mạch máu nhỏ cũng đủ để làm cho máu chảy trong vòng nửa giờ.
Nếu như trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật người La Mã được xem như một học trò của người Hy Lạp thì về mặt luật pháp, người La Mã được xem là bậc thầy. Cùng với những thành tựu khác, luật pháp của người La Mã cũng đã có những đóng góp nhất định vào nền văn minh chung của nhân loại. Bộ luật 12 bảng với tiến bộ vượt bậc đã chống lại sự phán xét độc đoán của giới quý tộc, bảo vệ quyền lợi và danh dự cho mọi công dân. Luật La Mã ảnh hưởng đến hệ thống pháp lý sau này của phương Tây và nhiều quốc gia hiện đại.
Cuối thế kỉ thứ II TCN - đầu thế kỉ thứ I, đạo Kitô ra đời ở La Mã. Sau khi người La Mã theo Kitô giáo đã nâng tôn giáo này từ một giáo phái nhỏ thành một trong các tôn giáo lớn của thế giới.
Những đóng góp của đế chế La Mã có huy hoàng, xán lạn đến đâu đi chăng nữa cũng đều bắt nguồn từ nỗ lực học hỏi, sáng tạo không ngừng từ nhiều nền văn minh khác, trong đó có Hy Lạp. Họ đã tiếp thu, hoàn chỉnh thành cá riêng của dân tộc mình. Nếu như không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật, khoa học Hy Lạp và đế chế La Mã; không có cơ sở của văn minh Hy Lạp và đế chế La Mã thì cũng không có châu Âu hiện tại được.
Đế chế La Mã được hình thành từ khát vọng chinh phục nhưng lại duy trì và phát triển nhờ tinh thần kỷ luật, tinh thần sáng tạo không ngừng, mà còn bởi ở tài năng của vị thủ lĩnh kiệt xuất như Julius Caesar đã gắn kết cả dân tộc bằng một tinh thần đoàn kết. Ông đã kết nối các cá nhân lại với nhau thành một thể thống nhất nhằm đánh bại mọi kẻ thù tạo nên đế chế La Mã hùng mạnh nhất trong lịch sử.
Julius Caesar trưởng thành trong thời kỳ hỗn loạn, nội bộ La Mã bị chia rẽ thành hai phe Quý tộc bảo thủ và Dân chủ. Bên ngoài, các quốc gia đồng minh liên tục gây chiến, tranh giành lãnh thổ. Năm Caesar 16 tuổi, cha ông đột tử, toàn bộ tài sản thừa kế bị bọn quan độc tài sung công. Ông quyết định gia nhập quân đội phục vụ ở khu vực Tiểu Á, thời cuộc hỗn loạn đã trở thành môi trường đào tạo và đòn bẩy giúp cho Caesar sớm bộc lộ tài năng quân sự của mình.

Julius Caesar là một thủ lĩnh đầy khát vọng. Khi còn tham gia quân đội tham chiến tại Gaul (nay là Pháp và Bỉ), ông đánh bại những bộ lạc ở đây, trở thành thủ lĩnh vùng Gaul và xây dựng quân đội để bắt đầu thực hiện các hoạt động quân sự nhằm củng cố vị thế


Caesar sớm bộc lộ mong muốn trở thành một trong những lãnh đạo vĩ đại của La Mã. Ông cũng là nhà cầm quân thiện chiến, luôn đặt lợi ích cá nhân dưới cộng đồng, đặt bản thân mình dưới đất nước và các đối thủ mạnh hơn nhiều lần cũng không làm ông sợ hãi.
Trong trận chiến nổi tiếng Pharsalus, ông đã chỉ huy đội quân 22.000 người đánh bại hoàn toàn đội quân 60.000 binh sĩ của phe Quý tộc. Sau đó, Julius Caesar dẫn quân chinh phục vùng Trung Đông, Bắc Phi mở rộng bờ cõi La Mã. Ông cũng là người hỗ trợ về quân sự để Cleopatra có thể trở thành nữ hoàng Ai Cập. Với các chiến công hiển hách, khi trở lại La Mã, Julius Caesar được tôn làm nhà lãnh đạo tối cao của La Mã và tôn làm Cha của Đất nước.
Ngay từ thuở thiếu thời, dù không giàu có nhưng gia đình Julius Caesar đã mời một nhà hùng biện nổi tiếng về dạy dỗ ông. Sau này, để hoàn chỉnh kỹ năng của mình, Julius Caesar còn theo học một nhà hùng biện nổi tiếng khác của La Mã. Với tài hùng biện xuất sắc, ông đã thuyết phục được một lực lượng hùng mạnh phò trợ cho mình. Bên cạnh đó, ông cũng chiếm được sự trung thành tuyệt đối của quân sĩ dưới quyền.
Đối với bản thân, Julius Caesar cũng vô cùng khắt khe. Ông tập luyện và sinh hoạt như một chiến binh, ông có khả năng sử dụng kiếm và cưỡi ngựa xuất sắc cùng sức chịu đựng đáng kinh ngạc. Trên trận chiến, ông không phải là vị tướng đi sau hàng quân mà luôn luôn là người đi đầu dẫn dắt. Khi nhìn thấy vị chủ tướng vung kiếm hô vang lời xung kích, đội quân La Mã đã vùng lên như vũ bão, bất chấp lực lượng đối địch, bất chấp địa hình, thời tiết… và họ đã trở thành đội quân làm nên sự vĩ đại của đế chế La Mã.
Vương quốc La Mã được bao bọc ba mặt là biển, phía bắc là dãy Alps. Khi người La Mã thống trị vùng đất này, họ muốn mở mang bờ cõi, xây dựng một đế chế không biên giới về lãnh thổ. Dựa vào sức mạnh quân sự, Roma chinh phục các vùng đất quanh khu vực Địa Trung Hải.
Cỗ máy quân sự của La Mã đi tới đâu, chiến tranh và kiểm soát đến đó. Đội quân này rất kiên trì và tham vọng thống trị đến mức sẵn sàng chiến đấu bất kể đổi thủ mạnh như thế nào, thời gian chiến tranh kéo dài bao lâu. Điển hình nhất là trận La Mã – Ba Tư kéo dài 683 năm đã trở thành cuộc xung đột kéo dài nhất trong lịch sử nhân loại.
Trải qua thời kỳ quân chủ (khoảng những năm 753 TCN đến 509 TCN), đế chế La Mã bước vào nền Cộng hòa La Mã. Người La Mã dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Ý như người Samnite và Sabine, người Etrusca.
Trong nửa sau của thế kỉ thứ 3 TCN, Roma xung đột với Carthage trong 2 cuộc chiến tranh Punic, xâm chiếm Sicilia và Iberia. Sau khi đánh bại Vương quốc Macedonia và đế chế Seleucid vào thế kỉ thứ 2 TCN, người La Mã trở thành những người chủ của vùng Địa Trung Hải.

Thế kỷ thứ 2 SCN, hầu như toàn bộ khu vực Địa Trung Hải, Tây Âu, Tiểu Á, Bắc Phi và nhiều vùng của Bắc và Đông Âu bị La Mã thống trị


Vào thời kỳ cực thịnh, đế chế La Mã cai quản một vùng đất rộng lớn khoảng 5 triệu km2, là đế chế lớn thứ 24 trong lịch sử với khoảng 50-90 triệu thần dân, chiếm khoảng 12-20% dân số thế giới lúc bấy giờ. Riêng thủ phủ Roma đã khoảng 1 triệu dân vào thời hoàng kim và là thành phố đông đúc nhất thời bấy giờ.
Lịch sử đã ghi nhận Maximinus Tharax trị vì đất nước từ năm 235 -258 SCN, ông nắm được quyền lực nhờ vào việc chỉ huy quân đội đầu tiên của đế chế La Mã. Vào thời điểm này, đế chế La Mã đã phát triển rộng lớn đến mức không còn khả thi để cai trị tất cả các tỉnh từ vị trí trung tâm. Tuy nhiên vào giai đoạn khủng hoảng từ năm 235-284 SCN đã có tới 14 vị hoàng đế - chiến binh thay nhau nắm quyền nhưng chỉ trong một thời gian rất ngắn.
Đến thời đại Septimius Severus, quân đội La Mã vô cùng hùng mạnh với 500.000 binh lính, 182.000 lính bộ binh, 250.000 quân trợ chiến, 10.000 cận vệ hoàng đế, 40.000 hải quân và 11.000 quân Madi.
Chiến binh La Mã xuất phát điểm là những người du cư thuần nông nhưng lại có thể trở thành bậc thầy trong tác chiến và thực thi chiến lược. Từ một thị trấn nhỏ như ở Italy, người La Mã đã trở thành bá chủ Địa Trung Hải và các khu vực Châu Á, Tiểu Á, Bắc Phi.
Đội quân La Mã còn được gọi là "Exercitus" nghĩa là "rèn luyện" và họ tôn thờ nữ thần kỷ luật Disciplina. Điều này nhấn mạnh rằng người La Mã cực kỳ chú trọng tới công tác huấn luyện và tính kỷ luật một cách nghiêm ngặt. Binh lính vi phạm sẽ bị trừng phạt rất nặng.
Đội hình La Mã được mô tả như là một "cỗ máy quân sự" và được coi là những người lính chuyên nghiệp đầu tiên trên thế giới. Lính La Mã rèn luyện ở mọi nơi, ngay cả trên chiến trường hay đường hành quân. Mỗi chiến binh đều hiểu, họ phải đạt đến ngưỡng hoàn hảo, có thể sử dụng kết hợp cùng lúc các loại vũ khí như kiếm, giáo và khiên. Có khả năng chiến đấu độc lập và phối hợp binh đoàn đầy hiệu quả.

Để hiểu một cách sâu sắc về tài trí quân sự và trang bị kiến thức nền tảng về binh pháp, khả năng thao lược của một dân tộc, một quốc gia, nhà sáng lập - Chủ tịch Tập đoàn Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ đã cẩn trọng tuyển chọn cuốn sách “Thập nhị binh thư” – một trong hơn 100 đầu sách quý của Tủ sách Nền tảng đổi đời với 12 lĩnh vực căn cốt nhất của toàn nhân loại


Trở nên hoàn hảo cũng là lựa chọn duy nhất, bởi đội hình tác chiến của quân đoàn La Mã vô cùng phức tạp. Các đơn vị chiến thuật có từ 60 - 120 người. Mỗi chiến binh mang theo số quân trang lớn nhất di chuyển trong một đội hình khít thường xuyên. Khi tác chiến họ sắp xếp đội hình, hành quân và phối hợp chiến đấu vô cùng chuẩn xác.
Đội hình vai kề vai, sát cánh cùng nhau đã tạo ra một khối sức mạnh tấn công sâu vào hàng ngũ quân địch. Đôi khi, mỗi chiến binh sẽ chiến đấu hoàn toàn đơn độc, xoay chuyển và đối phó với kẻ thù từ mọi hướng. Quân đoàn La Mã có thể đương đầu với nhiều loại quân khác nhau một cách hiệu quả từ kỵ binh, cung thủ, máy móc cho tới chiến tranh du kích. Họ gần như bất khả chiến bại, kỷ luật là yếu tố làm nên sức mạnh của đội quân La Mã cổ đại, một trong những đế chế rộng lớn nhất lịch sử nhân loại.
Họ có thể chịu những thất bại nặng nề, ngay cả khi đứng trước nguy cơ bị hủy diệt hoàn toàn nhưng họ chưa bao giờ khuất phục. Họ chấp nhận thua trong từng trận đánh nhưng quyết giành chiến thắng trong cả cuộc chiến tranh. Trận chiến Watling đã chứng minh cho điều đó khi 10.000 người La Mã đánh bại hơn 100.000 quân khởi nghĩa Briton.
Tinh thần kỷ luật thép và khát vọng xây dựng đế chế cường thịnh trở thành lẽ sống và sức mạnh để những nông dân thành Roma chinh phục và thống trị hơn 300 quốc gia khác. Trong thời đại thịnh trị, quân đoàn La Mã là những chiến binh không đối thủ, một quân đoàn huyền thoại mà cho đến nay, vẫn được các nhà quân sự cho là tổ chức hình mẫu.
Tuy nhiên, những cuộc di dân mà bao gồm cả các cuộc xâm lăng lớn của những bộ tộc người German và người Huns dưới trướng Attila đã dẫn đến sự suy tàn của đế quốc Tây La Mã. Cùng với sự thất thủ của Ravenna dưới bàn tay của người Heruli và sự kiện Odoacer lật đổ Romulus Augustulus vào năm 476 SCN, đế quốc Tây La Mã cuối cùng đã sụp đổ và nó đã bị hoàng đế Zeno bãi bỏ chính thức vào năm 480 SCN.
Đế quốc Đông La Mã, được biết đến sau này với tên gọi là đế quốc Byzantine, đã sụp đổ sau khi Constantinople thất thủ bởi bàn tay của người Ottoman dưới triều đại của Mehmed II vào năm 1453.

Xem thêm: Khách Sạn Anh Và Em Quận 1, A&Em Saigon Hotel (Thành Phố Hồ Chí Minh)


Sự hưng thịnh và suy vong của đế chế La Mã đã được dựng thành phim "The fall of the roman empire" và để hiểu biết sâu sắc hơn về đế chế La Mã còn có những bộ phim như: Alexander Đại đế, Spartacus - là những bộ phim thuộc Tủ phim Nền Tảng đổi đời do Nhà sáng lập, Chủ tịch Tập đoàn Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ tâm huyết, cẩn trọng tuyển chọn


Cuối cùng đế chế La Mã cũng không thể duy trì được sự tồn tại của mình. Sự sụp đổ La Mã đã chứng minh cho quá trình suy tàn của các đế chế ở phương Tây, khi mà các đế quốc không đủ tiềm lực để thực thi sự cai trị của mình lên lãnh thổ rộng lớn, được chia thành nhiều chính thể kế vị, khiến tình hình rối ren, bất ổn…
Đế chế này, sụp đổ cũng bởi xa rời những giá trị cốt lõi - khi mà khát vọng lớn xuất phát từ tham vọng mù quáng, sử dụng quá nhiều lực lượng sản xuất vào các cuộc bành trướng lãnh thổ gây mất cân bằng xã hội, sai lầm trong công cuộc chính trị hóa quân sự cùng với những cuộc thanh trừ nội bộ kéo dài trong suốt quá trình hình thành và phát triển.
Ở đế chế này, tuy có sự học hỏi nhưng chưa đầy đủ, các giá trị truyền thống cần được duy trì ngày càng mai một dẫn đến những suy đồi về đạo đức. Ở đế chế La Mã có tinh thần đoàn kết song vẫn còn tồn tại lòng vị kỷ của cá nhân, có sự phân biệt giai tầng gây nên mất cân bằng, bất bình đẳng, sử dụng bạo lực để cai trị, chính quyền tham nhũng ở khắp mọi nơi đã đẩy một đế chế hùng mạnh như La Mã đến bờ vực của sự lụi tàn.
Dẫu vậy, những ánh hào quang rực rỡ nhất mà đế chế La Mã đã tạo dựng cho văn minh châu Âu và nhân loại thế giới vẫn đáng được học hỏi.
Đón đọc kỳ sau: Đế chế Hồi Giáo - Từ bộ lạc du mục trở thành đế chế hùng mạnh