(Thanhuytphcm.vn) - Đầu tháng 9/1858, thực dân Pháp nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với họa xâm lăng từ một nước phương Tây, hoàn toàn chiếm ưu thế về tiềm lực kinh tế, quân sự, nhất là về vũ khí, công nghệ quân sự. Với truyền thống yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường, bất khuất, trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1896), đông đảo nhân dân trên khắp mọi miền đất nước đã anh dũng chiến đấu, tích cực cùng quan quân triều đình hoặc tự mình đứng lên chống thực dân Pháp. Mặc dù thực dân Pháp khuất phục được triều đình nhà Nguyễn, nhưng không thể đè bẹp tinh thần kháng chiến của dân tộc Việt Nam.

Bạn đang xem: Thực dân pháp xâm lược việt nam mấy lần?


Các phong trào yêu nước tiêu biểu như: Phong trào Cần Vương do các văn thân, sĩ phu yêu nước lãnh đạo, diễn ra sôi nổi trong cả nước và kéo dài hơn 10 năm từ 1885 đến 1896; các cuộc nổi dậy chống quân xâm lược ở các vùng địch chiếm đóng, tiêu biểu như: khởi nghĩa Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân; các cuộc đấu tranh của nhân dân các địa phương trung du miền núi, nổi bật nhất là khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 - 1913); các cuộc khởi nghĩa: Hương Khê (1885 - 1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo; Ba Đình (1886 - 1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng đứng đầu; Bãi Sậy (1885 - 1889) do Nguyễn Thiên Thuật chỉ huy; cuộc nổi dậy ở Hưng Hóa (1885 - 1889) của Nguyễn Quang Bích; phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo; cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo.

Các văn thân, sĩ phu yêu nước, những người đứng đầu các cuộc đấu tranh đã dựa vào dân, tin tưởng vào sức mạnh và ý chí quật cường của nhân dân, trở thành ngọn cờ quy tụ, đoàn kết nhân dân chống Pháp. Truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ, nhân dân khắp cả nước tích cực đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ đất nước. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên lần lượt thất bại.


*

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân.

Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra mạnh mẽ.

Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước.

8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới”<1> và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đồng loạt tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.


*

Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua 9 năm thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, ra sức xây dựng, củng cố thực lực, quân và dân ta không ngừng phát triển thế tiến công, càng đánh càng mạnh, giành những thắng lợi to lớn. Tiêu biểu như: Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông (1947), Chiến dịch Biên Giới (1950), Chiến dịch Hòa Bình (1951), Chiến dịch Đông Xuân (1951 - 1952), Chiến dịch Tây Bắc (1952), Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), làm nên thắng lợi “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, dân tộc ta phải hai lần tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Kết quả của hai cuộc kháng chiến đó tuy khác nhau nhưng đều để lại những bài học lịch sử về phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh của lòng dân, sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


*

Trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 hiện nay, bài học về lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết từ hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang được phát huy cao độ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành năng động, sáng tạo của Chính phủ, cả hệ thống chính trị vào cuộc, cùng sự chung sức đồng lòng muôn người như một của cả dân tộc và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, trận chiến “chống dịch như chống giặc” nhất định sẽ thắng lợi trong thời gian không xa.

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM

-------------

<1> Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.424

Cách đây 70 năm, ngày 19.12.1946, trước dã tâm cướp nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, sau khi tìm mọi cách để cứu vãn hòa bình không thành, Đảng ta - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động, bình tĩnh, chọn đúng thời điểm phát đi “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”. Đó cũng chính là thời khắc lịch sử, khởi điểm cuộc trường chinh của dân tộc ta chống thực dân và đế quốc xâm lược.


VẬN MỆNH DÂN TỘC BỊ ĐE DỌA

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 2.9.1945, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, đã tác động, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các thuộc địa; làm cho các thế lực đế quốc và bọn phản động quốc tế hết sức lo sợ, tìm mọi cách chống phá hòng thủ tiêu Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Mỹ công khai ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay lại xâm lược Việt Nam và Đông Dương. Đế quốc Anh xuất phát từ quyền lợi thực dân và theo quỹ đạo của Mỹ cũng ra sức ủng hộ ý đồ của thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương.

*
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet ký bản tạm ước Việt - Pháp ngày 14.9.1946, tại Paris, Pháp. Ảnh tư liệu

Nghìn cân treo sợi tóc

Trước đó, từ ngày 17.7.1945 đến 2.8.1945, hội nghị của các nước chiến thắng thuộc phe Đồng minh đã được triệu tập ở Potsdam, ngoại ô thành phố Berlin, nước Đức, với sự tham dự của Tổng thống Mỹ - Harry S.Truman, Thủ tướng Anh - Winston Churchill và lãnh tụ Xô-viết - Joseph Stalin để bàn về “những vấn đề quan trọng” sau Chiến tranh thế giới thứ II, thực ra đây là sự chia phần chiến thắng của các cường quốc. Tại hội nghị này, phe Đồng minh đã chia Việt Nam thành hai phần riêng biệt: Phía Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 (từ Đà Nẵng trở ra), là chiến trường của Trung Quốc do Thống chế Tưởng Giới Thạch chỉ huy; ở phía Nam vĩ tuyến 16 thuộc chiến trường Đông Nam Á do người Anh chỉ huy và khi chiến tranh kết thúc, chiến trường của ai thì lực lượng đó giải giáp quân Nhật. Điều này, đồng nghĩa với việc quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam, của chính quyền non trẻ Hồ Chí Minh chưa được quốc tế công nhận, tức Quốc tế chưa công nhận nước Việt Nam độc lập.

Ngày 16.2.1946, trong thư gửi Tổng thống Mỹ - Truman, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cuộc xâm lược của Pháp đối với một dân tộc yêu chuộng hòa bình là một mối đe dọa trực tiếp đối với an ninh thế giới. Nó hàm chứa sự đồng lõa, hay ít ra cũng là sự nhắm mắt làm ngơ của những nền dân chủ vĩ đại. Liên hiệp quốc phải giữ lời hứa. Họ phải can thiệp nhằm ngăn chặn cuộc chiến tranh phi nghĩa này, và để tỏ ra rằng trong thời bình họ có ý định thực hiện những nguyên tắc mà vì chúng, họ đã chiến đấu trong thời chiến”.

Ngày 13.12.1946, trong bài trả lời phỏng vấn phóng viên Báo Pari ở Sài Gòn, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Tôi biết là nhân dân Pháp không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này, chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách... Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng”.T.S

Trên thực tế, chính quyền cách mạng non trẻ của ta phải đối phó với muôn vàn khó khăn. Bên trong, thiên tai và nạn đói đang đe dọa; nền kinh tế bị đình đốn, hàng hóa khan hiếm, hàng vạn người thất nghiệp; ngân khố quốc gia chỉ còn hơn 1 triệu đồng tiền lẻ cũ nát; tệ nạn xã hội tràn lan, nhân dân đa số mù chữ, thất học; bộ máy quản lý nhà nước thiếu kinh nghiệm. Trong khi đó, quân đội quốc gia Việt Nam với tên gọi Vệ quốc đoàn chưa đến 50.000 người, vũ khí hết sức thiếu thốn, thô sơ, cũ kỹ. Bên ngoài, giặc ngoại xâm liên tục tấn công. Từ vĩ tuyến 16 trở ra là 200.000 quân Tưởng, từ vĩ tuyến 16 trở vào có hơn 10.000 quân Anh và hơn 60.000 quân Nhật, cùng nhiều đảng phái phản động lăm le lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa non trẻ, lập lại chính quyền tay sai và cướp nước ta lần nữa.

Đất nước đứng trước tình thế “nghìn cân treo sợi tóc”, “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm” đang đe dọa vận mệnh dân tộc.

Ra sức cứu vãn hòa bình

Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23.9.1945 được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai. Rồi chúng mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tìm cách đưa quân ra Bắc Bộ, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Hải Dương, gây nhiều vụ xung đột, khiêu khích ở Hà Nội.

Trước tình hình đó, cùng với việc củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm các biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Để tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cách mạng, tránh phải đối phó với nhiều kẻ thù, khi thì chúng ta tạm thời hòa hoãn với quân Tưởng để rảnh tay đối phó với quân Pháp, khi thì tạm thời hòa hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng và bọn tay sai ra khỏi đất nước.

Chúng ta đã chủ động đàm phán với Pháp để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, giữ độc lập tự do cho Tổ quốc, rồi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6.3.1946, sau đó ký Tạm ước ngày 14.9.1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư tới nguyên thủ các nước Anh, Mỹ, Liên Xô và các thành viên của Liên hiệp quốc, nêu rõ thiện chí hòa bình, mong mỏi Liên hiệp quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hòa bình. Đồng thời Hồ Chủ tịch liên tục gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Thủ tướng Pháp và cử phái viên đến gặp người cầm đầu Pháp ở Đông Dương, tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh cuộc chiến tranh đổ máu. Nhưng giới cầm quyền thực dân đã khước từ mọi nỗ lực cứu vãn hòa bình của chúng ta.

Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Bất chấp những thiện chí hòa bình của Việt Nam, trong các ngày 15 và 16.12.1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17.12.1946, chúng cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, rồi gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Ngày 18.12.1946, tướng Môlie gửi cho ta 2 tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, đòi để cho chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu đó không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động, chậm nhất là sáng 20.12.1946.

Thời khắc lịch sử

Kẻ thù đã đặt dân tộc Việt Nam trước hai con đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại làm nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giữ lấy tự do, độc lập. Tình thế đó buộc Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta không có lựa chọn nào hơn là cầm vũ khí đứng lên chiến đấu, phát động cuộc kháng chiến toàn quốc để bảo vệ độc lập, dân tộc.

Ngày 18 và 19.12.1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đề ra đường lối, quyết định cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiều ngày 19.12.1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển đến các đơn vị lực lượng vũ trang mật lệnh về ngày và giờ của cuộc giao chiến trong toàn quốc. Đúng 20 giờ ngày 19.12.1946, tín hiệu bắt đầu kháng chiến toàn quốc được phát ra, quân và dân thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc.

Sáng ngày 20.12.1946, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (viết ngày 19.12.1946) được phát đi khắp cả nước:

“Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp, cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”.

TOÀN DÂN TRƯỜNG KỲ KHÁNG CHIẾN

Cuộc kháng chiến bắt đầu từ Thủ đô Hà Nội, nơi có Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là nơi thực dân Pháp có ý định đánh úp cơ quan đầu não và tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta. Nơi đây trở thành chiến trường chính trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc. Sau đòn tiến công chủ động, đồng loạt và bất ngờ lúc 20 giờ ngày 19.12.1946, quân và dân thủ đô tiếp tục triển khai thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc. Trải qua 60 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân và dân Hà Nội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não; triển khai tản cư, bảo đảm an toàn cho nhân dân; chuyển hàng nghìn tấn máy móc, vật tư ra An toàn khu, tạo tiềm lực ban đầu cho kháng chiến.

*
Phát Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến tại Hà Nội. Ảnh tư liệu

Hưởng ứng lời kêu gọi, phối hợp với thủ đô Hà Nội, toàn dân tộc Việt Nam nhất tề đứng lên, ngay từ những ngày đầu đã đánh hàng trăm trận, làm tiêu hao nhiều sinh lực địch, giam chân chúng dài ngày trong các thành phố, thị xã, tạo điều kiện để cả nước bước vào chiến tranh, triển khai thế trận toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến...

TRÊN MẶT TRẬN QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh như là lời hịch cứu nước, động viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Quảng Nam - Đà Nẵng cũng với quân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại.

*
Các chiến sĩ Vệ quốc quân Quảng Nam - Đà Nẵng phục kích đánh địch ở hầm số 1 đèo Hải Vân trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Ảnh tư liệu

Chiến đấu giữ chân địch

Ngày 19.12.1946, Bộ Chỉ huy Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng nhận được điện từ Ban Thường vụ Trung ương Đảng thông báo: Ở thủ đô Hà Nội giặc Pháp đã hạ tối hậu thư đòi tước khí giới của quân đội, tự vệ, công an ta. Chính phủ đã bác bỏ tối hậu thư ấy. Như vậy, chỉ trong 24 giờ là cùng, chắc chắn quân Pháp sẽ nổ súng.

Lúc này, thế trận của quân ta bố phòng quanh Đà Nẵng đã hoàn tất ở trong nội thành cũng như vòng ngoài và đang sẵn sàng chờ lệnh. Đêm 19.12.1946. Ủy ban Quân sự Quảng Nam - Đà Nẵng nhận được lệnh qua điện thoại của đồng chí Nguyễn Chánh và Cao Văn Khánh (Quân khu 5) chuẩn bị nổ súng tiến công giặc. Một hội nghị liên tịch đặc biệt lập tức được triệu tập tại Trung đoàn 96 ở ngã tư Yên Khê, bao gồm các đại biểu: Ban Chỉ huy Mặt trận, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam, Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng và Ủy ban Kháng chiến. Hội nghị đã thống nhất nhận định tình hình địch, ta và xác định: “Nhiệm vụ chủ yếu của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng lúc này là chiến đấu giữ chân địch, không cho chúng vượt đèo Hải Vân để liên lạc với bộ phận Pháp ở Huế. Đồng thời ngăn chặn không cho chúng nhanh chóng vượt qua sông Cẩm Lệ để tiến về phía Nam”. Hội nghị quyết định đúng 2 giờ sáng 20.12.1946, các đơn vị bộ đội đóng tại Đà Nẵng sẽ nổ súng ở các trọng điểm đã định, chốt giữ những nơi trọng yếu, không cho giặc liên lạc, ứng cứu nhau; phá sập các cầu, các cơ sở quan trọng, hạ cây cản đường; tiếp tục đưa hết số đồng bào còn lại tản cư khỏi thành phố.

Nhưng do khuyết điểm của Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96, khi truyền đạt mệnh lệnh và chỉ đạo thiếu cụ thể, nên mãi đến sáng 20.12.1946, khi nghe súng nổ ở khu vực Cầu Vồng, đội tự vệ của nhà máy điện mới cho nổ bom phá nhà máy; Trung đoàn 93 nổ mìn phá sập cầu Cẩm Lệ và cầu xe lửa Phong Lệ (cầu Đỏ). Ở phía bắc, gần đèo Hải Vân, cầu Thủy Tú cũng bị phá sập. Như vậy, cuộc kháng chiến của quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng thực sự bắt đầu từ 8 giờ sáng 20.12.1946.

Đánh mạnh nhất, dẻo dai nhất

Ba ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến ở Quảng Nam - Đà Nẵng là một bức tranh hào hùng. Trong ngày thứ nhất, diễn ra nhiều trận chiến đấu quyết liệt giữa ta và địch ở khu vực Ủy ban Hành chính thành phố, Ngã Năm, Cổ viện Chàm, nhà ga Đà Nẵng, Cầu Vồng... Sang ngày thứ hai, địch dùng đại bác từ ngoài tàu chiến bắn vào uy hiếp và chặn đường tiếp tế của quân ta. Nhiều trận kịch chiến diễn ra ở chợ Mới, Cổ viện Chàm, nhà ga, chợ Cồn. Tại Cổ viện Chàm, nhiều chiến sĩ ta đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hy sinh tại chỗ. Đến ngày thứ ba, địch tập trung lực lượng giải vây cho bọn lính cố thủ tại đây.

Qua 3 ngày, với lực lượng đông, vũ khí mạnh, quân Pháp đã chiếm được nội thành, nhưng đó đã là một thành phố “vườn không, nhà trống”, không điện, không nước, không người, các đường phố bị phá, ngăn chặn bằng đủ loại chướng ngại vật. Trong khi đó, để bảo toàn lực lượng, các đơn vị của ta rút ra khỏi trung tâm, bố trí ở vòng ngoài, chiếm giữ các điểm cao, các phòng tuyến nam sông Cẩm Lệ, Non Nước, Nghi An, Hòa Mỹ, ngã tư Thanh Khê, đèo Hải Vân... không cho địch mở đường ra Huế và đánh lan ra vùng nông thôn.

Ngày 7.1.1947, có thêm viện binh từ Pháp sang, địch mở nhiều đợt tấn công vào các phòng tuyến của ta. Chiến sĩ ta chiến đấu dũng cảm, nhiều trận đánh giáp lá cà đã diễn ra. Cuối cùng, quân Pháp đã mở rộng được phạm vi chiếm đóng từ bắc sông Cẩm Lệ đến nam chân đèo Hải Vân. Ở phía đông, chúng chiếm lại bán đảo Sơn Trà đến phòng tuyến Non Nước. Ngày 15.1.1947, địch cho 2.000 quân hoạt động nghi binh phía đông Đà Nẵng, trong khi chúng tập trung 8.000 quân, 12 tàu thủy và 8 máy bay quyết đánh chiếm tuyến đường đèo Hải Vân; đồng thời một cánh quân khác từ Huế đổ bộ lên Lăng Cô đánh vào sườn bắc Hải Vân. Sau 3 ngày chiến đấu, quân ta tiêu diệt được một đoàn xe địch, 200 lính Âu Phi và làm bị thương nhiều tên khác, sau đó ta rút khỏi đèo Hải Vân.

Sau hơn một tháng chiến đấu, quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã tiêu hao một lực lượng giặc đáng kể, giam chân chúng trong thành phố, làm phá sản kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của giặc. Đồng thời tạo điều kiện cho đồng bào có thời gian tản cư, ổn định đời sống, chuyển dần vào sinh hoạt thời chiến, bảo tồn được lực lượng vũ trang và các cơ quan lãnh đạo của ta. Đánh giá thắng lợi của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng trong tháng kháng chiến đầu tiên, đồng chí Phạm Văn Đồng - lúc này là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ ở miền Nam Trung Bộ đã biểu dương “so với toàn quốc, Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng được liệt vào hạng đánh mạnh nhất và dẻo dai nhất” và gửi tặng lá cờ thêu hai chữ “Giữ vững”. Trung đoàn 96, đơn vị lập công xuất sắc, được vinh dự thay mặt quân dân Mặt trận nhận phần thưởng cao quý đó.

Kết thúc 30 năm trường chinh

Sau 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp, ngày 20.7.1954, quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng làm nên chiến thắng Bồ Bồ, trận “Điện Biên Phủ tại Quảng Nam”, góp phần chia lửa làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai của dân tộc ta. Ngay sau đó, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam, lập nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ mới: thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.

Xem thêm: Tặng Quà Gì Cho Bạn Trai Ngày Valentine, Gợi Ý 10 Món Quà Ý Nghĩa Nhất

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với nhiều cam go, quyết liệt hơn, kéo dài 21 năm. Để đến ngày 24.3.1975, quân và dân Quảng Nam đồng loạt đứng lên, giải phóng tỉnh Quảng Nam; góp phần cùng cả nước làm nên Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng ngày 30.4.1975, thu non song về một mối.