Chuyên ngành: Triết học


Bạn đang xem: Tư tưởng giáo dục của khổng tử

Mã số: 62.22.03.01 Họ và tên nghiên cứu sinh: Phạm Thị Dinh Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Anh Quốc TS. Phạm Đình Đạt
Cơ sở đào tạo: Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. HCM1.Tóm tắt nội dung luận án Là một trong những hình thái ý thức xã hội, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử không hình thành một cách ngẫu nhiên mà xuất phát từ điều kiện của xã hội Trung Quốc thời Xuân thu. Đó là thời kỳ quá độ chuyển từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, mệnh lệnh thiên tử nhà Chu không còn được tuân thủ, trật tự thể chế xã hội bị đảo lộn; những giá trị tư tưởng, đạo đức của xã hội cũ bị băng hoại, nhưng giá trị tư tưởng, đạo đức mới còn đang trên con đường xác lập; nạn chư hầu chiếm ngôi Thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha, em hại anh, vợ lìa chồng,… thường xuyên xảy ra. Các nước chư hầu đua nhau động binh gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau hòng làm bá thiên hạ. Do chiến tranh giữa các nước liên tục xảy ra trên quy mô lớn, tích chất tàn khốc của nó đã làm cho đời sống nhân dân ngày càng cùng cực, lòng dân lo sợ, bất an trước thời cuộc. Thực trạng xã hội trên đã đặt ra một loạt những vấn đề bức xúc, buộc các nhà tư tưởng phải quan tâm, lý giải. Trong đó, nổi bật là vấn đề làm thế nào để có thể ổn định trật tự xã hội và giáo hóa đạo đức con người, đưa xã hội từ “loạn” trở thành “trị”, con người từ “vô đạo” trở thành “có đạo”, “bất nhân” trở thành “nhân nghĩa”. Chính trong bối cảnh đó, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử đã hình thành và phát triển.Ngoài ra, sự hình thành tư tưởng đạo đức của Khổng Tử còn dựa trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những tư tưởng về đạo đức luân lý trong các thư tịch và kinh điển của Trung Quốc cổ đại như tư tưởng thiên mệnh, thiên lý. Bên cạnh đó, yếu tố không thể thiếu để hình thành tư tưởng đạo đức của Khổng Tử đó chính là phẩm chất cá nhân của ông. Trong đó, phẩm chất cao cả nhất theo suốt cuộc đời Khổng Tử đó là luôn đề cao nhân đức, lấy đạo đức làm trọng, luôn quan tâm tới sự tồn vong của đất nước, thấu hiểu nỗi khổ cực của người dân,... đã hun đúc lên tư tưởng đạo đức của ông.Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử là tổng hợp các nội dung: tư tưởng về vai trò của đạo đức; tư tưởng về các quan hệ đạo đức và các chuẩn mực đạo đức cơ bản. Khổng Tử cho rằng, trong xã hội có năm mối quan hệ đạo đức cơ bản gọi là “ngũ luân”, gồm quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè. Mỗi quan hệ có những tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng, như cha hiền, con thảo; anh tốt, em ngoan; chồng biết tình, vợ nghe lẽ phải; bề trên từ hiếu, bề dưới kính thuận; vua nhân từ, tôi trung thành. Vào thời mình, Khổng Tử đã đề cập đến những mối quan hệ và các tiêu chuẩn này, song ông nhấn mạnh nhiều hơn đến quan hệ vua tôi và cha con. Khổng Tử cũng cho rằng để thực hiện tốt các mối quan hệ đạo đức trên, con người cần phải lấy các chuẩn mực đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, dũng, hiếu, kính đễ để điều chỉnh hành vi của mình. Các chuẩn mực đạo đức này tồn tại trong mối tương quan sâu sắc lẫn nhau, trong đó, nhân được xem là trung tâm.Bên cạnh đó, Khổng Tử cũng chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho con người. Ông đã đưa ra những phương pháp giáo dục đạo đức hết sức tích cực và tiến bộ như: Phương pháp chính danh, phương pháp tùy nghi thuyết giáo; phương pháp nêu gương; thống nhất giữa học với hành, giữa tri thức và cuộc sống,… Chính điều này đã làm cho Khổng Tử không những trở thành nhà tư tưởng kiệt xuất, mà còn là một nhà giáo dục vĩ đại, người thầy của muôn đời.Những nội dung trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử, nhìn một cách khái quát, nổi lên những đặc điểm chủ yếu sau: Một là, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện sự thống nhất giữa đạo đức và chính trị. Hai là, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện tính thống nhất giữa ý thức cá nhân, gia đình và ý thức cộng đồng. Ba là, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện tính mâu thuẫn giữa quan điểm tiến bộ với quan điểm bảo thủ, lạc hậu.Với những nội dung và đặc điểm như trên, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử có những giá trị như: góp phần xây dựng một xã hội có trật tự kỷ cương, nền nếp từ trên xuống dưới, từ bản thân mỗi cá nhân đến gia đình và xã hội; đồng thời, hàm chứa giá trị nhân bản, nhân văn khá sâu sắc. Tuy nhiên, tư tưởng đó vẫn có những hạn chế nhất định, thể hiện quan điểm duy tâm, tiên nghiệm, phiến diện về lịch sử và còn mang dấu ấn đẳng cấp, danh phận. Song, nếu bỏ qua những hạn chế này, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn.Về mặt lý luận, Khổng Tử không chỉ cống hiến cho nền học thuật Trung Hoa nói riêng và nhân loại nói chung một hệ thống các phạm trù đạo đức khá phong phú và sâu sắc, mà ông còn đưa ra phương pháp giáo dục đạo đức cho con người hết sức tích cực, tiến bộ. Đây chính là một đóng góp to lớn và quý báu vào sự hình thành, phát triển lý luận về tâm lý và lý luận về giáo dục trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.Về mặt thực tiễn, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử có ý nghĩa trong việc xác định rõ yêu cầu và trách nhiệm của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội; góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức của con người; đồng thời có ý nghĩa trong việc cai trị, quản lý xã hội, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống đạo đức xã hội ở một số nước phương Đông, trong đó có Việt Nam.2. Những kết quả mới của luận án
Một là, trên cơ sở xã hội và tiền đề hình thành, phát triển tư tưởng đạo đức của Khổng Tử, luận án đã tập trung làm rõ những nội dung cơ bản và những đặc điểm chủ yếu trong tư tưởng đạo đức của ông một cách có hệ thống và sâu sắc hơn. Hai là, luận án đã phân tích, đánh giá, chỉ ra những giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử về mặt lý luận và thực tiễn, góp thêm một ý tưởng về mối liên hệ lịch sử và tầm ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Khổng Tử với lịch sử nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng.3. Khả năng ứng dụng của luận án
Việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Khổng Tử một cách có hệ thống cả về nội dung, đặc điểm, giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử của nó, giúp chúng ta thấy rõ vai trò to lớn trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử đối với việc xác định yêu cầu, trách nhiệm của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội, góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức của con người và cai trị, quản lý xã hội. Kết quả của luận án có thể làm tài liệu nghiên cứu cho việc tìm hiểu lịch sử triết học Trung Quốc nói chung, triết học Khổng Tử nói riêng; đồng thời, cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy của các cá nhân, tổ chức có liên quan.

Từ xưa đến nay, con người luôn là vấn đề cốt lõi, vấn đề thiết yếu của lịchsử tư tưởng nói chung và của triết học nói riêng. Việc nghiên cứu tư tưởng vềcon người trong lịch sử để tìm ra những hạn chế và giá trị tích cực, từ đó gópphần vào việc xây dựng con người hiện tại và tương lai.Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, Đảng ta xác định con người là mộttrong những nhân tố quyết định hàng đầu tới sự phát triển của đất nước. Conngười mới mà hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang quyết tâm xây dựng là conngười phát triển toàn diện về mọi mặt: thể chất, trí tuệ, đạo đức, Quán triệt tưtưởng trên, Nhà nước và nhân dân ta đã tập trung huy động toàn bộ lực lượng xãhội tham gia vào nhiệm vụ xây dựng con người mới, trong đó có việc tiếp thucác giá trị truyền thống tốt đẹp và tinh hoa văn hóa nhân loại. Một trong nhữngtư tưởng quý báu trong kho tàng nhân loại, thấm đẫm truyền thống phương
Đông, có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành con người Việt Nam thờiphong kiến chính là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.Khổng học là một học thuyết chính trị- xã hội luôn lấy đức làm trọng, làcông cụ quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc. Với rất nhiều giáo lýphù hợp với xã hội Việt Nam, Khổng học từng bước được giai cấp thống trị Việt
Nam tiếp nhận và đề cao, đặc biệt trong quản lý đất nước, đào tạo con người.Thời gian vừa qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trongviệc xây dựng và phát triển con người, bên cạnh đó còn bộc lộ nhiều hạn chếđáng lo ngại. Chẳng hạn, sự yếu kém về thể chất; sự tụt hậu về tri thức, khoa họccông nghệ; đặc biệt là sự tha hóa đạo đức, lối sống, Những hạn chế này cónhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có nguyên nhân từ việc chúng ta quá đề caovà hướng theo các giá trị hiện đại, mà bỏ quên hay kế thừa chưa hiệu quả các giátrị truyền thống, cũng như các tinh hóa văn hóa nhân loại, trong đó có tư tưởnggiáo dục của Khổng Tử. Nếu chúng ta biết kế thừa có chọn lọc những nhân tố cógiá trị trong tư tưởng giáo dụnc của Khổng Tử thì sẽ có được nhiều bài học kinhnghiệm quý giá, góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong xây dựng conngười mới hiện nay. Từ ý nghĩa đó, tôi quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay” làmtiểu luận của mình.3. Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận* Mục đích Tiểu luận là làm rõ tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, đồngthời làm rõ ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở nước ta.* Để thực hiện được mục đích trên, Tiểu luận thực hiện một số nhiệm vụ:Trình bày và phân tích có hệ thống nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử; Nêu ý nghĩa giáo dục tư tưởng của Khổng Tử với việc xây dựng conngười ở nước ta hiện nay.


*
21 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6216 | Lượt tải: 10
*

Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌCPHẦN MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay, con người luôn là vấn đề cốt lõi, vấn đề thiết yếu của lịchsử tư tưởng nói chung và của triết học nói riêng. Việc nghiên cứu tư tưởng vềcon người trong lịch sử để tìm ra những hạn chế và giá trị tích cực, từ đó gópphần vào việc xây dựng con người hiện tại và tương lai.Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, Đảng ta xác định con người là mộttrong những nhân tố quyết định hàng đầu tới sự phát triển của đất nước. Conngười mới mà hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang quyết tâm xây dựng là conngười phát triển toàn diện về mọi mặt: thể chất, trí tuệ, đạo đức,…Quán triệt tưtưởng trên, Nhà nước và nhân dân ta đã tập trung huy động toàn bộ lực lượng xãhội tham gia vào nhiệm vụ xây dựng con người mới, trong đó có việc tiếp thucác giá trị truyền thống tốt đẹp và tinh hoa văn hóa nhân loại. Một trong nhữngtư tưởng quý báu trong kho tàng nhân loại, thấm đẫm truyền thống phương
Đông, có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành con người Việt Nam thờiphong kiến chính là tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.Khổng học là một học thuyết chính trị- xã hội luôn lấy đức làm trọng, làcông cụ quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc. Với rất nhiều giáo lýphù hợp với xã hội Việt Nam, Khổng học từng bước được giai cấp thống trị Việt
Nam tiếp nhận và đề cao, đặc biệt trong quản lý đất nước, đào tạo con người.Thời gian vừa qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trongviệc xây dựng và phát triển con người, bên cạnh đó còn bộc lộ nhiều hạn chếđáng lo ngại. Chẳng hạn, sự yếu kém về thể chất; sự tụt hậu về tri thức, khoa họccông nghệ; đặc biệt là sự tha hóa đạo đức, lối sống,…Những hạn chế này cónhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có nguyên nhân từ việc chúng ta quá đề caovà hướng theo các giá trị hiện đại, mà bỏ quên hay kế thừa chưa hiệu quả các giátrị truyền thống, cũng như các tinh hóa văn hóa nhân loại, trong đó có tư tưởnggiáo dục của Khổng Tử. Nếu chúng ta biết kế thừa có chọn lọc những nhân tố cógiá trị trong tư tưởng giáo dụnc của Khổng Tử thì sẽ có được nhiều bài học kinhnghiệm quý giá, góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong xây dựng conngười mới hiện nay. Từ ý nghĩa đó, tôi quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng giáo
BÙI HOÀNG THAOTrang 1TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌCdục của Khổng Tử với việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay” làmtiểu luận của mình.3. Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận* Mục đích Tiểu luận là làm rõ tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, đồngthời làm rõ ý nghĩa của nó trong việc xây dựng con người mới ở nước ta.* Để thực hiện được mục đích trên, Tiểu luận thực hiện một số nhiệm vụ:Trình bày và phân tích có hệ thống nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử; Nêu ý nghĩa giáo dục tư tưởng của Khổng Tử với việc xây dựng conngười ở nước ta hiện nay.4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Trong Tiểu luận này, tôi chỉ đề cập đến tư tưởng giáo dục của Khổng Tử; vaitrò của những tư tưởng này trong việc xây dựng con người mới ở nước ta.5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu- Tiểu luận thực hiện trên cơ sở các tác phẩm của Khổng Tử; một số tácphẩm và và công trình nghiên cứu tiêu biểu về Khổng Tử; nhiều công trình nghiêncứu về xây dựng con người mới ở nước ta. Tuận văn dựa trên quan điểm chủnghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về con người và về chiến lược xây dựng và phát triển con người- Tiểu luận dựa vào phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thờisử dụng các phương pháp lịch sử và logic, phương pháp phân tích và tổng hợp,phương pháp so sánh, phương pháp thống kê…6. Đóng góp mới về khoa học của Tiểu luận- Luận văn trình bày tương đối có hệ thống và đánh giá khách quan những tưtưởng giáo dục của Khổng Tử, để trên cơ sở đó góp phần làm rõ hơn ý nghĩa củanhững tư tưởng này đối với việc xây dựng con người ở nước ta hiện nay.BÙI HOÀNG THAOTrang 2TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌCPHẦN NỘI DUNGCHƯƠNG 1: TƯ TƯỞ
NG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội Trung Quốc cổ đại với việc hìnhthành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
Như chúng ta đã biết, sự xuất hiện của mỗi học thuyết, tư tưởng khôngphải là ngẫu nhiên hay từ hư vô, mà luôn có cơ sở khách quan của nó. Trong đócó điều kiện về kinh tế- xã hội chi phối.Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng giáo dục của Khổng Tử cũngkhông phải là một ngoại lệ, nằm ngoài quy luật trên. Do đó, muốn nghiên cứu,tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử không thể không đi vào nghiên cứu, tìm hiểu điềukiện kinh tế- xã hội, văn hóa, chính trị của thời kỳ Xuân thu- Chiến quốc- thờiđại mà tư tưởng Khổng Tử nói chung cũng như tư tưởng giáo dục của Khổng Tửnói riêng nảy sinh, hình thành và phát triển.Khổng Tử sống trong thời kỳ Xuân thu- Chiến quốc (770-221T.CN), thờikỳ xã hội Trung Quốc đang có những chuyển biến hết sức căn bản. Chế độchiếm hữu nô lệ theo kiểu phương Đông mà đỉnh cao là chế độ “tông pháp” nhà
Chu đang suy tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ đang hình thành.Thời kỳ Xuân thu được đánh dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương dời đô vềphía Đông đến Lạc Ấp (năm 771 T.CN). Về mặt kinh tế, thời kỳ này nền kinh tếTrung Quốc đang chuyển từ thời kỳ đồ đồng sang thời kỳ đồ sắt. Sự ra đời củađồ sắt như một cuộc cách mạng trong công cụ sản xuất, tạo ra động lực mạnhmẽ thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực.Trong đó nông nghiệp là một ngành kinh tế có truyền thống lâu đời và giữ vaitrò hết sức quan trọng ở Trung Quốc. Cùng với nông nghiệp và thủ công nghiệp,đồ sắt ra đời và trở nên phổ biến còn tạo cơ sở cho thương nghiệp phát triển hơntrước, hoạt động giao lưu buôn bán diễn ra sôi động. Tiền tệ đã xuất hiện, xã hộihình thành lớp thương nhân ngày càng có thế lực như Huyền Cao nước Trịnh,Tử Cống (vốn là học trò Khổng Tử)…Về chính trị, những biến đổi về mặt kinh tế tất yếu dẫn đến những biếnđổi về mặt chính trị trong thời Xuân thu. Trong thời đại lịch sử đầy biến độngcủa thời kỳ Xuân thu- Chiến quốc đó đã đặt ra cho các nhà tư tưởng những dấuhỏi lớn về mặt triết học, chính trị, luân lý đạo đức, pháp luật, quân sự,… đòi hỏicác nhà tư tưởng phải có những tìm hiểu, nghiên cứu để đưa ra những câu trảlời, đưa ra những giải pháp giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội lúc bấy giờ.Thời kỳ này đã xuất hiện hàng loạt các nhà tư tưởng lớn và học thuyết lớn. Nó làthời kỳ phát triển rực rỡ của triết học Trung Quốc, nhiều nhà nghiên cứu gọi đâylà thời kỳ “bách hoa đề phóng, bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhàđua tiếng).BÙI HOÀNG THAOTrang 3TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC1.1.2. Quan niệm về bản tính con người của Khổng Tử với việc hìnhthành tư tưởng giáo dục của ông.Cùng với hoàn cảnh Khổng tử- xã hội lúc bấy giờ, một trong những cơ sởkhông kém phần quan trọng làm nảy sinh, hình thành và phát triển tư tưởng giáodục của Khổng Tử, đó là quan niệm về bản tính con người.Vấn đề bản tính con người là một vấn đề trung tâm và gây tranh cãi nhiềunhất trong triết học Trung Quốc cổ đại nói chung cũng như Nho giáo và Khổng
Tử nói riêng. Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là thiện. Mạnh Tử viết: “cáibản tính của người ta vốn thiện, cũng như bản tính của nước là chảy xuống vậy.Không một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện; cũng như thế, không mộtthứ nước nào mà không chảy xuống thấp”. Ông cho rằng biểu hiện của tính thiệnở con người trong xã hội là: nhân, lễ, nghĩa, trí.Ngược lại với Mạnh Tử, Tuân Tử khẳng định bản tính con người là ác.Theo Tuân Tử, cái tham lam, ích kỷ; cái gian ác, đố kỵ; cái dâm lọan là thuộc vềbản năng vốn có của con người. Ông đề xuất phép trị nước là giáo hóa dân, kếthợp giữa lễ giáo và hình phạt nhằm khắc chế tính ác, hướng thiện cho conngười.Đối lập với cả Mạnh Tử và Tuân Tử, Cáo Tử cho rằng: “cái tính tự nhiêncủa con người chẳng phải thiện, cũng chẳng phải bất thiện”. Theo ông, tính banđầu nguyên thủy của con người là một cái gì đó thuần phác, mộc mạc, khôngphân biệt thiện với bất thiện.Còn theo Lão- Trang thì Đạo là bản nguyên của vạn vật, tất cả mọi vậtđều từ đạo mà ra và đề trở về với nguồn gốc là đạo. Do đó, Lão- Trang cho rằngtính của vạn vật sinh ra đã có, là tính của tự nhiên. Nếu tính đó bị nhiễm một cáigì như nhân, nghĩa,… thì không còn là tính nữa.Mặc dù có nhiều điểm khác nhau như trên nhưng khát quát lại chúng tavẫn thấy có nhiều nét tương đồng, giống nhau cơ bản. Thứ nhất, họ đều cho rằngbản tính con người là cái tính, trời sinh ra đã vốn có ở tâm, mang tính “tiênthiên” chứ không do con người tự lựa chọn. Khổng Tử đã nói: con người ta sinhra, cái bản tính vốn ngay thật, (nhân chi sinh giã trực); Mạnh Tử cũng viết: conngười sinh ra vốn bản tính là thiện, (nhân chi sơ tính bản thiện). Thứ hai là, họđều quan niệm tính gắn liền với tâm của con người. Theo họ, “Tâm” là thể, thì“Tính” là lý của tâm, tâm là cái ẩn dấu ở bên trong, còn tính là cái biểu hiện rabên ngoài qua các đức tính của con người như thiện, ác, nhân, nghĩa, lễ,… Nếuđem “tâm” và “tính” ấy mà biểu lộ thành thái độ của con người đối với sự vật,với người khác thì gọi là “tình”; “tình” gồm có: ái, ố, hỉ, nộ, lạc, bi, ai. Thứ balà, mặc dù đều xem bản tính con người là tiên thiên, là cái có sẵn, nhưng họcũng đều khẳng định bản tính con người có thể thay đổi được, “cải biến” đượcvà họ đều chủ trương giáo hóa con người theo nhiều cách khác nhau.BÙI HOÀNG THAOTrang 4TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌCTrong số các nhà triết học quan tâm đến vấn đề bản tính con người, có thểnói, Khổng Tử là người đầu tiên trong thời Xuân thu đề cập đến vấn đề này,nhưng trong học thuyết ông lại rất ít đề cập về vấn đề này. Khổng Tử còn chorằng: “người ta tất thảy đều giống nhau, vì ai nấy đều có bản tính ngay thật;nhưng bởi nhiễm thói quen, nên họ thành ra khác nhau”.Do vậy, để mọi người gần nhau và trở lại bản tính ban đầu, tức là bản tínhvốn lành, ngay thẳng, làm cho xã hội vô đạo trở về với hữu đạo, Khổng Tử chủtrương giáo hóa, mọi người phải học tập, tu dưỡng hướng tới những điều nhânnghĩa để giữ bản tính thiện của mình, xa rời cái ác, cái bất nhân, hiểu được cáiđạo và trở về với đạo thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn.1.2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
Khổng Tử rất coi trọng giáo dục. Ông khẳng định, ai cũng cần phải đượcgiáo dục: Vua cũng cần phải học để làm vua, dân cũng cần phải học để làm dân.Nếu không được giáo dục thì dù có giỏi đến đâu dần dần cũng sẽ bị ngu muội.Tuy còn nhiều hạn chế nhưng có thể nói Khổng Tử là người đầu tiên đãxây dựng được một hệ thống tư tưởng giáo dục khá hoàn chỉnh cả về mục đích,đối tượng, nội dung và phương pháp. Thể hiện một tầm nhìn chiến lược và sâusắc, để lại cho loài người nhiều kinh nghiệm quý báu về giáo dục.1.2.1. Mục đích và đối tượng giáo dục của Khổng Tử1.2.1.1. Mục đích giáo dục
Mục đích giáo dục của Khổng Tử là đào tạo cho xã hội đương thời mẫungười “lý tưởng”. Mục đích giáo dục của Khổng Tử không đơn thuần chỉ là đàotạo ra những người có tri thức mà cao hơn nữa, ông đào tạo ra người có đủ đức,đủ tài để tham gia gánh vác công việc quốc gia, bình ổn xã hội.Đối với bậc dân thường, Khổng Tử dạy cho họ đạo làm người như tamcương, ngũ thường, nhân, lễ, hiếu, nghĩa,... với mục đích để họ hiểu được đạo lý,sống đúng với đạo lý, từ đó biết nghe lời, phục tùng mệnh lệnh của nhà cầmquyền. Còn đối với bậc quân tử, Khổng Tử giáo dục họ để họ biết cách cai trị vàquản lý xã hội. Trong những mục đích cụ thể đó, theo Khổng Tử, mục đích caonhất của giáo dục là học để làm chính trị. Do đó, mục đích chính của Khổng Tửlà giáo dục người quân tử.Tư tưởng học để làm chính sự, làm quan để biến xã hội từ “loạn thành trị”của Khổng Tử được học trò rất thấm nhuần. Tử Lộ, một học trò của ông chorằng: người có học, có tài đức mà không ra làm quan, không hợp đạo nghĩa.Người quân tử ra làm quan để thi hành cái nghĩa lớn trung quân ái quốc mà thôi,chứ không phải mưu cầu phú quý. Tử Hạ, một học trò khác của Khổng Tử, chorằng: học ra làm quan là một quá trình học đạo và hành đạo bổ sung cho nhau.Người đã làm quan thì cũng cần phải học thêm, còn người học thì nên làm quan.1.2.1.2. Đối tượng giáo dục
BÙI HOÀNG THAOTrang 5TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌCXuất phát từ quan điểm bản tính con người là giống nhau, do tập quán,thói quen sống mà làm cho bản tính khác nhau, chỉ có thông qua giáo dục mớilàm cho mọi người quay về với bản tính vốn có của mình, Khổng Tử đã đưa ratư tưởng hết sức tiến bộ, đó là: “Hữu giáo vô loại”. Mỗi học giả đều giải thíchtheo cách hiểu riêng của mình nhưng chung quy lại đều thống nhất thừa nhận tưtưởng của Khổng Tử là: mọi người đều được giáo dục không phân biệt giai cấp,thiện ác, và được giáo dục là quyền lợi của tất cả mọi người.Chính vì vậy, hạng người nào đến xin học Khổng Tử đều nhận dạy. Ôngnói: “Nếu có kẻ thô bỉ đến hỏi ta, dầu là kẻ tối tăm mờ mịt tới đâu, ta cũng đemhai bề từ đầu chí đuôi mà dẫn giải cho thật tường tận mới nghe” (Hữu bỉ phuvấn ư ngã, không không như giã, giã khấu kỳ lưỡng đoan, nhi kiệt yên). Thậmchí Khổng Tử cũng sẵn sàng dạy cho cả những người ác nghịch, khó dạy.Như vậy có thể nói, đối tượng giáo dục của Khổng Tử, một mặt, mangtính chất bình đẳng và hết sức tiến bộ, nhưng mặt khác, nó không vượt qua đượchạn chế bởi tầm nhìn lịch sử và bởi tính chất hết sức nghiệt ngã của chế độphong kiến.1.2.2. Nội dung giáo dục của Khổng Tử
Xuất phát từ quan niệm bản tính con người là ngay thẳng, là thiện; cũngnhư quan niệm cho rằng nguyên nhân của “vương đạo suy vi, bá đạo nổi lên” làở con người. Do con người không có “đạo”, làm trái với “đạo”. “Đạo” mà
Khổng Tử nói đến ở đây thực chất là đạo đức của con người hay “đạo làmngười”. Con người không có “đạo” mới dẫn đến chuyện tranh giành quyền lực,địa vị, đất đai, chém giết lẫn nhau làm cho kỷ cương phép tắc đảo lộn, làm choxã hội rối loạn. Để cho xã hội trở lại thanh bình, theo Khổng Tử phải làm chocon người có “đạo”, làm theo “đạo”. Trong đó, nội dung giáo dục cốt lõi nhất,quan trọng nhất là Nhân, Lễ và Chính danh định phận.Nhân vốn là một phạm trù đạo đức của quý tộc chủ nô thời Ân, Thương,bao gồm nhiều nội dung như việc tuân theo ông cha, yêu con người, làm lợi chođất nước, che chở cho dân,…nhưng những nội dung đó chưa trở thành một hệthống chặt chẽ mà là những nội dung riêng rẽ. Khổng Tử đã kế thừa tư tưởng
Nhân của người trước, đồng thời bổ sung cho Nhân những nội dung mới, biếnnó trở thành một hệ thống chặt chẽ, rộng lớn bao trùm tất thảy các phạm trì khácnhư Trung thứ, Trí, Dũng, Nghĩa, Hiếu đễ, Khoan thứ,… và chứa đựng toàn bộtư tưởng của ông về đạo trị nước an dân, đạo làm người.Nhân trong tư tưởng Khổng Tử đó là yêu người. Nhân còn có nghĩa là
Trung thứ. Tức là cái gì mà mình muốn làm thì cũng phải giúp người khác đượcnhư vậy. Nhân còn bao gồm Hiếu đễ. Hiếu đễ là tiêu chuẩn trong gia đình. Hiếulà tiêu chí của con cái đối với cha mẹ. Đễ là tiêu chí của người em đối với anhchị và người lớn tuổi. Khổng Tử xem Hiếu đễ là cái gốc của nhân. Đức Nhân là
BÙI HOÀNG THAOTrang 6TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌCbậc thang giá trị cao nhất trong thang bậc đạo đức của con người. Theo Khổng
Tử, chỉ có người nhân mới có thể có được cuộc sống an vui lâu dài với lòngnhân của mình và dẫu có ở vào hoàn cảnh nào, cũng có thể yên ổn, thanh thản.Đối với lễ tế, Khổng Tử khẳng định lễ tế rất quan trọng đối với người quân tử,nếu biết lễ tế thì việc cai trị thiên hạ hết sức dễ dàng, giống như bỏ một vật lêntay mình: “Người nào biết ý nghĩa của cuộc tế lễ thì tri thiên hạ cũng như coibàn tay mình” (Bất tri giã tri kỳ thuyết giả chi ư thiên hạ giã, kỳ như thị chư tưhồ. Chỉ kỳ chưởng). Do vậy, Khổng Tử dạy học trò phải có sự kính cẩn, nghiêmtúc, cẩn thận trong khi hành lễ. Nội dung quan trọng nhất của Lễ mà Khổng Tửgiáo dục học trò là pháp điển của chế độ phong kiến.Ngay từ đầu, mục đích của Khổng Tử là biến xã hội từ “loạn thành trị”cho nên việc giảng dạy Lễ của Khổng Tử cũng không nằm ngoài mục đích chínhtrị mà ông theo đuổi. Khổng Tử giáo dục học trò cách thức và biện pháp để cóthể khôi phục và củng cố lễ chế nhà Chu. Khổng Tử là người đã đem lễ tiết nhà
Chu cải biến thành một phạm trù đạo đức được coi là mực thước cho các hành vicủa con người trong xã hội. Một nội dung quan trọng nữa trong tư tưởng giáodục của Khổng Tử là tư tưởng “Chính danh định phận”.Bên cạnh việc giảng dạy đạo lý, đạo làm người, Khổng Tử còn dạy họctrò văn chương và lục nghệ. “Văn” là gồm thi, thư, lễ, nhạc, xuân thu; còn “Lụcnghệ” là nội dung chương trình các trường công lúc bấy giờ gồm sáu môn: lễ,nhạc, xạ (bắn cung), ngự (đánh xe), thư (viết chữ), số (toán pháp).Như vậy, trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, cùng với quan điểm vềvũ trụ và con người, học thuyết về luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội là mộttrong những vấn đề cốt lõi và là thể thống nhất gắn bó hữu cơ với nhau. Nhữngphạm trù đạo đức căn bản nhất trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử là nhân,lễ, nghĩa,.. và một hệ thống quan điểm chính trị- xã hội như: nhân trị, chínhdanh, quân tử, tiểu nhân,1.2.3. Phương pháp giáo dục của Khổng Tử
Trong quá trình dạy học rất nhiều năm của mình, Khổng Tử đã sử dụngrất nhiều phương pháp, nhưng trong phạm vi Tiểu luận, tác giả xin được nêu ramột số phương pháp cơ bản như sau:Phương pháp dạy tùy đối tượng: Đây chính là phương pháp sau này được
Nho giáo khát quát thành tư tưởng “Nhân tài thì giáo”, tức là căn cứ ào tài năng,phẩm chất từng người để giáo dục. Đối tượng giáo dục của Khổng Tử rất khác
BÙI HOÀNG THAOTrang 7TIỂU LUẬN LỊCH SỬ TRIẾT HỌCnhau: có người nhiều tuổi, người ít tuổi, có người giàu, có người nghèo, cónhiều người có tính cách và xu hướng chính trị khác nhau.Phương pháp kết hợp học với suy nghĩ: Trong quá trình dạy học, Khổng
Tử luôn khích lệ học trò tự suy nghĩ, người thầy chỉ giữ vai trò hướng dẫn. Cónhư vậy học trò mới phát triển được: “Học mà chẳng suy nghĩ thì chẳng đượcthông minh. Suy nghĩ mà chẳng chịu học thì lòng dạ không được yên ổn” (Họcnhi bất tư, tắc võng; tư nhi bất học, tắc đãi).Phương pháp kết hợp học với tập: là phương pháp kết hợp học với việctập luyện, thực hành những điều đã học và đem tri thức đã học vận dụng vàocuộc sống. Ông dạy học trò phải luôn luôn luyện tập và không được quên nhữngđiều đã học được.Phương pháp học kết hợp với hành: Khổng Tử yêu cầu học trò học phảigắn với hành, tức là phải vận dụng những kiến thức đã học vào trong cuộc sống.Tri thức lý luận chỉ mới nếu ra những nguyên tắc định hướng còn thức hành mớigiúp cho người học đạt đạo.Phương pháp nêu gương: Theo Khổng Tử, nhân cách của người thầy cósức thuyết phục mạnh mẽ đối với người học, người học nhìn vào tấm gươngngười thầy mà tin rằng những điều thầy dạy là chân lý, là những điều tốt đẹp.Cho nên, để trở thành tấm gương cho học trò thì người thầy phải là người phảiđi trước.2.2. Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
Mặc dù tư tưởng giáo dục của Khổng Tử có ảnh hưởng lớn đối với sựphát triển của Trung Quốc và nhiều nước châu Á khác, những ảnh hưởng đókhông đơn thuần mang tính tích cực mà bên cạnh đó có những hạn chế.Trước hết về mục đích giáo dục: như đã trình bày ở trên, mục đích giáodục bao trùm của Khổng Tử là nhằm đào tạo những con người phù hợp với địavị xã hội mà mình có, nghĩa là sống đúng với danh của mình. Nếu tầng lớpthường dân được giáo dục để biết phục tùng người trên, thì người quân tử đượcgiáo dục để làm người cai trị. Trong đó, Khổng Tử ưu tiên cho mục đích đào tạolớp người cai trị.Về đối tượng giáo dục: với tư tưởng “hữu giáo vô loài”, có thể nói, Khổng


Xem thêm: Top 7 Phần Mềm Thiết Kế Tem Xe Máy Miễn Phí Tốt Nhất, Just A Moment

Tử là người đầu tiên chủ trương “bình dân” trong giáo dục. Ông đã vượt quađẳng cấp, danh phận trong xã hội góp phần đưa sự nghiệp giáo dục con ngườiđến với mọi lớp người ở mọi phạm vi và trình độ. Ông đã phá vỡ đặc quyề